ĐỖ HOÀNG GỬI VỀ ĐỒNG TÂM CHIA SẺ QUÂN DÂN陸遊 Lục Du 陸遊 (1125-1209) tự Vụ Quan 務観, hiệu Phóng Ông 放翁, người Sơn Âm, Việt Châu (nay thuộc Nhạn Môn Đạo, tỉnh Sơn Tây), thời Nam Tống ông đã làm quan Tri châu, Tri phủ, còn làm quan Quốc sử biên tu, ông là một vị thi nhân ái quốc. Sống vào thời kỳ hai hai triều Tống Kim đánh nhau, Lục Du trở thành một người rất trăn trở vì mất nước. Khi đó người Nữ Chân (vương triều Kim) đã đánh chiếm xuống phía nam, đất nước chia năm xẻ bảy, dân tình ly tán loạn lạc. Ông đã từng vào đất Nam Trịnh (Tứ Xuyên hiện nay) theo phong trào chống Kim, đã từng mặc giáp cưỡi ngựa vượt qua sông Vị cùng những toán kỵ mã yêu nước, ban đêm đột kích quân Kim nhiều lần. Ông có Kiếm nam từ chuyên tập lưu truyền đến nay.
XUÂN NHẬT TẠP HỨNG
Dạ dạ nhiên tân noãn nhứ khâm,
Ngung trung nhất phạn trị thiên câm (kim)!
Thân vi dã lão dĩ vô trách,
Lộ hữu lưu dân, chung động tâm!
Dịch nghĩa:
CẢM HỨNG VẶT NGÀY XUÂN
Đêm đêm đốt củi sưởi ấm chiếc mền bông,
Bữa cơm non trưa đáng giá nghìn vàng!
Đã làm ông lão nhà quê, thân mình không còn trách nhiệm gì nữa,
Nhưng thấy ngoài đường có dân liếu xiêu, lòng ta vẫn thổn thức.
Dịch thơ:
CẢM HỨNG LẶT VẶT TRONG NGÀY XUÂN Đêm đêm đốt củi sưởi mền bông
Một bữa cơm trưa vạn lạng ròng
Ông lão nhà quê không việc xóm
Thấy dân tan nát quá đau lòng!
Đỗ Hoàng dịch năm 1972, cao điềm chốt 280, biên giới Việt - Lào