Kiều Thơ (tiếp theo)

Thứ bảy - 16/01/2021 07:01
Lts: Trong Kim Vân Kiều có gần 1000 câu thơ (857 câu) do Kiều, Sở Khanh, Giác Duyên, Thuc Sinh...sáng tác. Trong đó Kiều sáng tác rất nhiều và rất hay.Việc này cho ta thấy Kiều là người tài sắc vô song. Thanh Tâm Tài Tử là bậc Văn sĩ trác việt muôn đời.
Khi phóng tác "Đoạn trường tân thanh 3254 câu" (quen gọi truyện Kiều) Cụ Nguyễn Du có chỗ nhắc đến, có chỗ không nhắc đến. Ví dụ như khi Kiều viết khúc Bạc mệnh, Cụ Nguyễn Du chỉ nhắc:"Một thiên bạc mệnh lại càng nảo nhân". Cụ không dịch bài thơ này.
Nhà thơ Đỗ Hoàng khi phóng tác Kiều Thơ (6122 câu) đã dịch ra thơ Việt. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.
vannghecuocsong.com
Kiều Thơ (tiếp theo)
Lts : KIỀU THƠ - ĐỖ HOÀNG (Trích)

A Lts: Trong Kim Vân Kiều có gần 1000 câu thơ (857 câu) do Kiều, Sở Khanh, Giác Duyên, Thuc Sinh...sáng tác. Trong đó  Kiều sáng tác rất nhiều và rất hay.Việc này cho ta thấy Kiều là người tài sắc vô song. Thanh Tâm Tài Tử  là bậc Văn sĩ trác việt muôn đời.
Khi phóng tác "Đoạn trường tân thanh 3254 câu" (quen gọi truyện Kiều) Cụ Nguyễn Du có chỗ nhắc đến, có chỗ không nhắc đến. Ví dụ như khi Kiều viết khúc Bạc mệnh, Cụ Nguyễn Du chỉ nhắc:"Một thiên bạc mệnh lại càng nảo nhân". Cụ không dịch bài thơ này.
Nhà thơ Đỗ Hoàng khi phóng tác Kiều Thơ (6122 câu) đã dịch ra thơ Việt.  Xin giới thiệu cùng bạn đọc.
     vannghecuocsong.com

KIỀU SÁNG TÁC:

Nguyên bản:

薄命
故國參商
玉容

東君奉先
侯門
非類茂林
顦顇瞳子
暗傷

紈扇

零落
紅顏斷腸

!
Nguyên văn Hán - Việt:      

Bạc mệnh oán khúc

Hoài cố quốc hề thán ná Sâm Thương,
Bi luân vương hề ngọc dung hà tường?
Tỉ muội cố sủng hề nhất triêu câu tử,
Đông quân bất lệnh hề Phụng Tiên diệt vương.
Hầu môn tự hải hề Tiêu Lang mạch lộ
Thất thân phi loại hế Mậu Lâm tranh quang.
Vị lang tiều tuỵ hề cập nhĩ đồng tử,
Ly hồn tình trọng hề thiển xướng ám thương.
Tử phụ phụ thi hề sinh đại phụ tử,
Sủng suy hoàn phiến hề nhĩ sinh bất xương.
Hữu thuỷ vô chung hề bi hồ thất lữ,
Môn tiền linh lạc hề lão đại thuỳ tương.
Cổ kim hồng nhan hề mạc bất bạc mệnh.
Hồng nhan bạc mệnh hề mạc bất đoạn trường.
Ngã bản oán nhân hề nãi vi oán khúc,
Văn thử oán khúc hề thuỳ bất bi thương.

Đỗ Hoàng dịch nghĩa:

Khúc oán mệnh bạc

Lòng nhớ về quê cũ, những lần lữa cách trở như Sâm, Thương,
Hồng nhan có phải để nỗi buồn như điềm gở?
Chị em Triệu Phi Yến được vua sủng ái như thế một sớm cũng tiêu tan!
Phụng Tiên chết thảm, Chúa Xuân cũng vô tình.
Một bước vào chốn Công hầu khác nào bước xuống bể thẳm, chàng Tiêu  Sử trở thánh khách qua đường!
Gái ở chốn Mậu Lâm  tài sắc đủ điều xe duyên chẳng lựa đành bỏ mạng.
Lòng dạ thiếp đây tiều tuỵ, khô héo cũng vì chàng.
Hồn bỏ đi cửu tuyền, tình nặng vô vàn sao chẳng cùng khuất nẻo trần gian? Cất lên những tiếng than nảo nề, ai oán!
Nàng Tào Nga đội thây cha chết đuối, cha lớn lao sinh con lớn lao!
Tấm lòng sủng ái lúc yêu, lúc ghét, sương thu lạnh, mảnh quạt để rơi.
Trước cửa lạnh lùng, lúc già cỗi còn ai cầu nữa.                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                           
Xưa nay hồng nhan đều là người bạc mệnh.
Hồng nhan bạc mệnh làm không khỏi nỗi đau đứt ruột.
Ta cùng là khách má hồng ai oán làm ra khúc oán này.
Hỏi ai khi nghe khúc oán này mà không buồn thương bi luỵ!
Đỗ Hoàng dịch thơ:

Khúc oán mệnh bạc

…Nhớ về cách trở Sâm, Thương. (1)
Hồng nhan là giống buồn vương luỵ phiền.(2)
Triệu nương vua chuộng ngày đêm (3)
Chúa Xuân chán bỏ Phụng Tiên chết sầu!(4)
Chàng Tiêu người ngọc thấy đâu? (5)
Mậu Lâm con gái gieo cầu trái duyên! (6)
Vì chàng khô héo thuyền quyên (7)
Hồn vương ly loạn cửu tuyền, trần gian. (8)
Cứu cha ghi dấu sử vàng! (9)
Tấm lòng ưu ái vì nàng đó thôi! (10)
Bởi đâu làm lỡ lứa đôi?
Vô duyên già cội chẳng ngồi lầu trang (11)
Cổ kim bạc mệnh hồng nhan! (12)
Má hường phận mỏng đa đoan, đoạn trường! (13)
Với ta khúc oán Kiều nương.
Ai nghe không khỏi xót thương phận mình!...

Chú thích:
  1. Tích cũ  là hai ngôi sao trên trời chỉ sự xa cách.
  2. Thuyết hồng nhan
  3. Triệu Phi Yến người đẹp đời Hán được vua sủng ái, sau chết vì oán hờn.
  4. Phụng Tiên tên hiệu của Triệu Phi Yến.
  5. Tích xưa, chàng Tiêu bán thiếp tài sắc vào cửa Công hầu không bao giờ thấy mặt nữa.
  6.  Tích ở Tư Mã Tương Như - Con gái miền Mậu Lâm đẹp nhưng cầu hôn không đúng chỗ nên xảy ra nhiều oan trái.
  7. Thuyền quyên là gái đẹp.
  8. Theo đạo Phật chết còn hồn vương lại dưới chín suối và trên cõi trần
  9. Tích Tào Nga một thiếu nữ đời Đông Hán liều mình xuống sông cứu cha được đời sau khen ngợi.
  10. Ai cũng yêu mến Tào Nga.
  11. Ca dao: “Còn duyên kẻ đón, người đưa/ Hết duyên đi sớm về trưa mặc lòng”, chỉ nhưng cô gái hết duyên không còn ngồi được ở lầu hồng.        
  12. (13) Thuyết hồng nhan bạc mệnh - Người đẹp đều bất hạnh trong tình yêu và cuộc sống.
(Còn nữa)

A A Lts : KIỀU THƠ - ĐỖ HOÀNG (Trích)

A Lts: Trong Kim Vân Kiều có gần 1000 câu thơ (857 câu) do Kiều, Sở Khanh, Giác Duyên, Thuc Sinh...sáng tác. Trong đó  Kiều sáng tác rất nhiều và rất hay.Việc này cho ta thấy Kiều là người tài sắc vô song. Thanh Tâm Tài Tử  là bậc Văn sĩ trác việt muôn đời.
Khi phóng tác "Đoạn trường tân thanh 3254 câu" (quen gọi truyện Kiều) Cụ Nguyễn Du có chỗ nhắc đến, có chỗ không nhắc đến. Ví dụ như khi Kiều viết thơ trước mộ Đạm Tiên (hai bài), Cụ Nguyễn Du chỉ viết:"Rút trâm giắt sẵn mái đầu/ Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần..."Lòng thơ lai làng bồi hồi/ Gốc cây lại vạch một bài cổ thi". Cụ không dịch hai bài thơ này.
Nhà thơ Đỗ Hoàng khi phóng tác Kiều Thơ (6122 câu) đã dịch ra thơ Việt.  Xin giới thiệu cùng bạn đọc.
     vannghecuocsong.com
Kiều làm thơ trước mộ Đạm Tiên (Bài một) :

“Rút trâm sẵn giắt mái đầu
Vạch da cây vịnh bốn câu, ba vần” ( Nguyễn Du).
Đoạn này trong nguyên bản, Kiều không vạch da cây, Thanh Tâm Tài Tử chỉ tả: …Vừa khấn, vừa đốt hương rồi thụp ngồi trước mộ, bái xong bốn bái, nàng mới đề một bài thơ như sau:

憑弔
明月


白雪

!


Nguyên bản âm Hán - Việt:

Sắc hương hà xứ dã,
Bằng điếu thống tâm tai.
Minh nguyệt lãnh loan bị,
Ám trần phong kính đài.
Ngọc tuy hoàng thổ oánh,
Danh vị bạch tuyết mai,
Thượng hữu như miên tửu
Vô nhân điện nhất tửu bôi.

Đỗ Hoàng dịch nghĩa:

Sắc hương đã trôi dạt về miền nào rồi?
Đến đây viếng thăm về chuyện cũ, lòng đau đớn lắm thay!
Trăng sáng lạnh lẽo soi chăn uyên.
Bụi ám mờ tấm gương trong.
Ngọc tuy đất vàng mài rủa, vầy lấp.
Danh chưa thành trước cây tuyết mai trắng.
Trên còn chung rượu say.
Không ai rót một chén rượu cho người bạc mệnh!

Đỗ Hoàng dịch thơ:

…Sắc tài chẳng có tri âm, (1)
Buốt lòng thăm viếng, lệ thầm xót xa!
Chăn đơn lạnh lẽo bóng ngà, (2)
Trải bao gió bụi nhạt nhoà gương trong. (3)
Bùn nhơ vầy bẩn ngọc hồng! (4)
Tuyết mai trắng xoá tên không tỏ bày. (5)
Chỉ em cùng chị hôm nay, (6)
Xin dâng một chén rượu cay đượm nồng!..
Chú thích:
(1) Tích xưa, bạn thân nhất.
(2) Ngà chỉ ánh trăng, nghĩa bóng là người đẹp.
(3) Gương trong chỉ người đẹp.
(4) Ngọc hồng chỉ người đẹp.
(5) Tuyết mai trắng xoá chỉ người đẹp.
(6) Chỉ em cùng chị : Thuý Kiều và Đạm Tiên.

Kiều làm thơ trước mộ Đạm Tiên (Bài hai):

Lòng thơ lai láng bồi hồi
Gốc cây lại vạch một bài cổ thi ( Nguyễn Du)
Đoạn này trong nguyên bản củaThanh Tâm Tài Tử  có tả: …Linh hồn người trước nay đã cảm thông, vậy trước khi ra về em cũng phải có mấy câu từ biệt. Nói xong nàng liền rút chiếc trâm ở trên mái tóc vạch vào gốc cây một bài từ tạ như sau:西
使
慘切
凄涼

重來
不斷
!

Nguyên bản âm Hán – Việt:

Tây phong hà hối khí,
Trân trân sử nhân ai.
Thảm thiết như hàm oán,
Thê lương tự hữu hoài.
Thừa loan nghi sạ khứ,
Khoá hạc nhạ trùng lai.
Bất đoạn hương hồn xứ,
Thương thương xi ấn đài!
Đỗ Hoàng dịch nghĩa:

Gió tây thổi tới lúc nào đó?
Từng trận, từng trận làm cho lòng người sầu nảo.
Thảm thiết như ngậm một nỗi oán.
Buồn bã thê lương như nhớ nhau.
Cưỡi chim oanh đã vụt biến đi đâu
Cưỡi chim hạc lại chợt về sau đó.
Hương hồn không mất chốn này.
Gót ngọc còn in trên lớp rêu xanh!

Đỗ Hoàng dịch thơ:

…Gió tây tơi táp bời bời,
Nát tan cây cỏ chẳng vơi mối sầu.
Ngậm hờn, oán tủi, oan sâu.(1)
Thê lương nguồn cội, rầu rầu nhớ nhung! (2)
Oanh vờn chấp chới mông lung,(3)
Bóng chiều cánh hạc ngại ngùng về mau. (4)
Hương hồn còn mãi muôn sau, (5)
Gót tiên, dáng ngọc in màu rêu phong!... (6)



Chú thích:
(1) Nguyên bản Hàm oán là ngậm nỗi oán hờn.
(2) Thê lương: Buồn thảm, não nùng.
(3) (4) Chim oanh và chim hạc.
(5) Theo thuyết nhà Phật thì người chết rồi nhưng linh hồn vẫn còn.
(6) Gót tiên, dáng ngọc chỉ Đạm Tiên


A Lts: Trong Kim Vân Kiều có gần 1000 câu thơ (857 câu) do Kiều, Sở Khanh, Giác Duyên, Thuc Sinh...sáng tác. Trong đó  Kiều sáng tác rất nhiều và rất hay.Việc này cho ta thấy Kiều là người tài sắc vô song. Thanh Tâm Tài Tử  là bậc Văn sĩ trác việt muôn đời.
Khi phóng tác "Đoạn trường tân thanh 3254 câu" (quen gọi truyện Kiều) Cụ Nguyễn Du có chỗ nhắc đến, có chỗ không nhắc đến. Ví dụ như khi Kiều viết thơ trước mộ Đạm Tiên (hai bài), Cụ Nguyễn Du chỉ viết:"Rút trâm giắt sẵn mái đầu/ Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần..."Lòng thơ lai làng bồi hồi/ Gốc cây lại vạch một bài cổ thi". Cụ không dịch hai bài thơ này.
Nhà thơ Đỗ Hoàng khi phóng tác Kiều Thơ (6122 câu) đã dịch ra thơ Việt.  Xin giới thiệu cùng bạn đọc.
     vannghecuocsong.com

(638) Nguyên văn là xướng ca: Chỉ gái ở chốn thanh lâu làm những việc không đứng đắn..
Nguyên văn:
Thiếp thân bạc mệnh lạc xướng ca,
Giá đắc lương nhân thực phú hoa.
Ỷ la đội lý sinh ca điệt,
Phỉ thuý dinh trung âm luật xa.
Chuân chiên đố vũ tuỳ phong bạc,
Hựu hướng hầu môn ký lãng tra.
Tiếu đề bất cảm như vô ngã,
Hỉ nộ do nhân chỉ vấn tha.
Văn đạo chủ ông thiên lý phản.
Tương phùng khước thị cựu nùng gia.
Nhất vi toà thượng phong lưu tế,
Nhất vi trù hạ tiểu dung oa.
Tứ mục tương khan sinh khí đoạn,
Lưỡng tâm tương chiếu tử tranh ta.
Man bả Hồ cầm điềư cựu oán.
Bi tai kim nhật thực kham ta.
Bi kim nhật hề vị thứ hà vu,
Ức cựu sự hề án phách trường hu.
Tương phùng bất ngộ hề can trường dục đoạn.
Hà thì trung hội hề song song đồng phi.
Dịch:
Thiếp phận bạc bị rơi vào làm con nhà hát xướng.
Lấy được chồng lương thiện lại bậc giàu sang có học.
Nổi lên giữa đám lụa là.
Trong dinh Phỉ Suý tiếng đờn ca xướng hoạ vang lừng.
Lại gặp mưa hờn, gió nổi lại phiêu lãng.
Như canh bè trôi lạc cửa hầu.
Khóc cười thật vô cảm ta không làm chủ được.
Vui cười, giận dữ chẳng có ai hỏi đến.
Nghe nói ông chủ từ vạn dặm đã trở về nhìn xem.
Lúc gặp nhau mới nhận ra người cũ.
Một vị ngồi ở trên là thượng khách,
Một kẻ ở dưới bếp là con hầu tiểu tốt.
Bốn mắt nhìn nhau tưởng chừng tắt thở,
Đôi lòng soi thấu ngỡ sẽ chết đi.
Điệu Hồ cầm man dại gảy khúc cũ ai oán.
Lúc này gặp gỡ càng buồn,
Buồn lúc này vị thứ phân cách.
Nhớ việc cũ gõ phách đàn thở than.
Gặp gỡ nhau mà lại bị chia cắt đôi nơi.
Biết lúc nào chắp cánh cùng đôi bay đi.







KIỀU THƠ (trích)
3865- Hoạn Thư: “Hiểu tử nguồn cơn,
Công cha, nghĩa mẹ cao hơn nghìn trùng. (637)
Vậy thì nâng chén vui cùng,
Hoa Nô lệnh lấy một chung rượu mời.
Tiểu thư hoan hỷ nói cười,
3870- Bắt nàng hầu hạ hai nơi sẵn sàng.
Bắt bê, bắt dọn, bắt mang,
Bắt khoan, bắt nhặt, bắt cam cúi đầu,
Bắt cười, bắt nói, bắt sầu,
Bắt làm hề hoạn, bắt câu hát hò.
3875- Kỳ Tâm lòng rối tơ vò.
Mấy lần từ chối giả đò lãng ra.
Hoạn Thư tay đánh, miệng la:
“Mời chàng không trọn thì ta cho đòn!”
Sinh càng chín héo mười hon,
3880- Bát tô, chén mít, ly con cạn liền.
Tiểu thư phởn chí huyên thuyên:
“Hoa Nô tài tử, tay tiên Hồ Cầm.
Hãy nghe hắn gảy khúc ngâm.
Cho chàng dịu lại cõi tâm não nề.”
3885- Kiều đang ảo não ê chề,
Gượng lòng thử lại ngón nghề đa mang.
Giọng đàn não ruột, bào gan,
Người ngồi nghe cũng nát tan cõi lòng.
Khúc này ai biết cho không?
3890- Kẻ cười người khóc lẫn trong giọng vàng.
Kiều thì huyết ngọc như chan,
Kỳ Tâm khoé mi hai hàng mưa rơi.
Nàng như quên hết mọi người,
Dạo thành khúc hát chơi vơi phím cầm:
3895- “Thiếp hèn lạc chốn tà dâm, (638)
Được chồng nghĩa trọng tình thâm đậm đà.
Tiếng cầm nổi đám lụa là, (639)
Vang danh Phỉ Thuý sênh ca rộn ràng. (640)
Mấy phen gió nổi phiêu dang.
3900- Cánh bèo trôi dạt dềnh dàng hầu môn.(641)
Khóc cười như kẻ vô hồn,
Ai chia được nỗi vui buồn lòng ta.
Hỡi người từ chốn xăm xa.
Gặp nhau mà thấy như là người dưng.
3905- Kẻ trên tiệc lớn tưng bừng,
Người thì dưới bếp ngượng ngùng nồi niêu.
Nhìn nhau hồn lạc, phách xiêu.
Lòng đây, lòng đấy chín chiều quyên sinh.
Hồ Cầm man điệu trần tình.
3910- Mạch sầu gặp gỡ ta mình chơi vơi.
Vì đâu xa cách đôi nơi?
Nhớ nhung chuyện cũ hụt hơi phách đàn.
Tương phùng đòi đoạn đứt tan,
Bao giờ chắp cánh đôi hàng cùng bay?”
3915- Nghe đàn muôn nỗi giải bày.
Lệ rơi như giọt rượu cay đắng lòng.
Hoạn Thư: “Trong buổi tương đồng,
Chẳng còn khúc hát mặn nồng nữa sao?
Đoạn trường mượn cớ phổ vào.
3920- Cho chàng ảo não tâm bào ruột gan.
Nếu còn tiếp tục ngón đàn.
Tội này ta sẽ cầm giam suốt đời.”
Sinh liền giả bộ nói cười.
Cho nàng khỏi bị đòn roi phủ đầu.
3925- Kiều nương nghèn nghẹn  giọt châu,
Điệu vui thay lại điệu sầu vừa qua.
Cho nàng, chàng bớt xót xa.
Phù Diêu một bản tình ca nhẹ nhàng: (642)
“Doanh Châu cưỡi gió mơ màng, (643)
3930- Cầu ông Liệt Tử thuộc hàng tiên tri. (644)
Hôm mai mưa móc sá gì,
Rượu trời du ngoạn ly bì ngất ngư.
Xếp cùng vạn vật còn dư,
Mệnh mình cõi thế cũng như mệnh trời.”
3935- Nghe xong Sinh mới cả cười:
“Tay tiên mấy ngón chuyển dời non cao,
Như triều dâng sóng dạt dào,
Hồ Cầm tuyệt kỹ xếp vào nhất danh.”
Hoạn Thư tuy vẫn đành hanh,
3940- Nghe đàn cũng phải cố dành lời khen:
“Danh cầm ai dám đua chen,
Đến phường con hát cũng xem tuyệt vời.
Giá mà phận số hơn người,
Biết đâu cũng được ở nơi gác vàng.”
3945- Lại thêm một chén cho chàng,
Tướng công hãy cạn để tan muộn sầu.
Tửu vào càng chảy dòng châu.
Bày trò như thế còn đâu nghĩa tình.
Vội đành ngảnh mặt làm thinh
3950- Sợ gây khó dễ điêu linh cho nàng.
Hoạn Thư hể hả vô vàn,
Anh kia, chị nọ chẳng làm được chi.
Kẻ là chủ, kẻ thị tỳ,
Để ta diễu võ dương uy hút hồn.
3955- Bỏ bao ngày tháng héo hon,
Vui này cho thoả mỏi mòn ngày qua.
Trước tình thế chẳng đường ra,
Lui về cũng nhỡ, bước qua cũng phiền.
Kiều ngầm căm cảnh đảo điên:
3950- “Hoạn Thư đố phụ thù riêng trên đời!
Ghen chi ghen đến khác người,
Cừu hờn hung hiểm đất trời có ai?
Cùng là thê thiếp trong ngoài,
Phu quân còn được đôi lời phân bua.
3965- Đoạn đành bạo chúa hơn vua,
Cậy thần, cậy thế làm mưa gió cuồng.
Khiến bao chồng vợ tang thương.
Bắt người cướp của giữa đường như chơi.
Phu thê chia rẽ đôi nơi.
3970- Chính mày bức tử bao người oan gia.
Sống ta không trả thù nhà,
Chết đi sẽ nguyện làm ma giết mày!”
Tiệc mừng kéo cả đêm say,
Vợ chồng líu ríu dắt tay vào phòng.
3975- Còn nàng làm ngọn đèn chong,
Hắt hiu giữa chốn phòng không lạnh lùng.
Sao trăng lạc giữa mịt mùng,
Trời cao đất thấp một vùng trần ai!
Tủi thân giọt ngắn, giọt dài.
3980- Đêm đen vần vụ, ngày mai một mà.
Nỗi mình không có lối qua,
Đầu bù tóc rối gỡ ra hết tình!
(Còn nữa)





    

A Lts: Trong Kim Vân Kiều có gần 1000 câu thơ (857 câu) do Kiều, Sở Khanh, Giác Duyên, Thuc Sinh...sáng tác. Trong đó  Kiều sáng tác rất nhiều và rất hay. Việc này cho ta thấy Kiều là người tài sắc vô song. Thanh Tâm Tài Tử  là bậc Văn sĩ trác việt muôn đời.
Khi phóng tác "Đoạn trường tân thanh 3254 câu" (quen gọi truyện Kiều) Cụ Nguyễn Du có chỗ nhắc đến, có chỗ không nhắc đến. Ví dụ như khi Kiều và Sở Khanh xướng họa,  Cụ Nguyễn Du chỉ viết:"Cách tường nghe có tiếng đâu họa vần". Cụ không dịch hai bài thơ  xướng họa này.
Nhà thơ Đỗ Hoàng khi phóng tác Kiều Thơ (6122 câu) đã dịch ra thơ Vià dịch ra Đường luật để bạn đọc tham khảo, xin giới thiệu cùng bạn đọc.
     vannghecuocsong.com





(364) Nguyên văn:



彿


往事


Nhập song tân thuỷ tẩm khê hoa,
Phụ thảo đà lam tứ vọng xa.
Cận hải trào thanh hư toạ thấp
Cách thành phàm ảnh phất lan tà,
Phong phù sấu ngã kinh đăng các.
Lãng trục chinh nhân đảo ấn sa.
Vãng sự bất kham tần lệ lạc.
Âu hương mạn chử vũ tiền trà!
Dịch:
Giọt nước mới lọt song cửa thấm đầy hương hoa của khe suối,
Cỏ thơm đồng nội bốn bề xanh lam.
Tiếng sóng trùng dương ào ạt vỗ quanh chiếc ngồi cạnh biển
Xa xa một cánh buồm thấp thoáng  nghiêng bên ngoài thành.
Gió thổi tới lồng lộng ta vò vỏ ngại bước lên lầu .
Người đi lòng buồn, ngọn sóng vỗ in hình trên cát.
Nhớ chuyện cũ, lệ buôn tuôn không ngăn được.
Mùi trà thơm còn đượm đầy để dành người trở về sau mưa.

Lọt song giọt nước thắm khe hoa 
Bốn phía hương thơm nội cỏ hoa
Cạnh bể triều lên chân ghế tựa,
Cách thành buồm vẫy sóng nghiên xòa!
Gió lồng ta ngại lên tầng gác,
Sóng chuyển người buồn in bãi sa!
Chuyện cũ muôn năm còn rớt lệ
Sau mưa chờ khách ngát hương trà!


 (365) Nguyên văn:

桃花





破瓜

Lâu ngoại thuỳ gia thanh mấn oa,
Trường ngâm thanh cách bích đào hoa.
Sầu xuân bút đề đê nghi yết.
Oán hướng phong tiền khiếu nhược ta.
Viễn tiếp phương hương sân phấn điệp,
Vi thông u ý hỉ song ca.
Khanh tu linh ngã đa tài nghệ
Ngã khước linh khanh vị phá qua!
(366) Phá qua: Chữ qua trong chữ Hán tách thành hai chữ bát tức là 16 tuổi.
Dịch:
Ngoài lầu nhà ai nghe tiếng người ngọc,
Tiếng thơ ngâm dài cách tường bên cây hoa đào.
Nghẹn ngào nỗi sầu xuân tuôn ra chẹn dòng bút viết.
Nỗi oán ngọc hờn thở than trước gió..
Xa xa cánh bướm hận nỗi phải hờn mùi  hương phấn.
Nỗi u tình vui, lời ca  gửi lọt qua song cửa .
Nàng có tưởng đến ta cũng là bậc đa tài nghệ.
Ta lẽ nào không thương nàng tuổi trăng tròn lẻ.

Nhà ai ngoài phố tiếng tiên sa
Ngâm vọng cách tường đào bích hoa
Nức nở xuân buồn ngưng mực viết,
Nghẹn ngào ngọc oán cạn người qua
Xa xôi cánh bướm hờn son phấn
Gần guĩ khối tình rộn khúc ca
Nàng hỡi ta là trang hảo hán
Cứu nàng chớm tuổi bước cầm ca!



KIỀU THƠ (rích)
Hồn thơ lai láng bội phần.
Kiều nương lấy bút tiếp vần khúc ca:
2035- “Cửa phòng sương tẩm hương hoa, (364)
Xanh rờn đồng trãng la đà giọt vương,
Biển dồi sóng vỗ chân tường.
Buồm xa thấp thoáng trùng dương nghìn tầm.
Lầu không ngọn gió tri âm,
2040- Người xa bạc sóng khóc thầm đêm thâu!
Lệ tuôn lòng lại thêm sầu,
Hương trà nồng đượm mưa mau người về!”
Tình thơ vừa dứt tay đề,
Lòng riêng muôn nỗi não nề buồn tênh.



Chương mười lăm 
 Sở Khanh

2045- Cách lầu nghe nhịp sên sênh.
Tiếng thơ hoạ lại nỗi nênh tình chờ:
“Hỡi ơi, người ngọc mộng mơ, (365)
Bích đào đồng vọng giọng tơ ngân dài.
Nghẹn ngào buồn tối, sầu mai.
2050- Lá xanh hờn gió rơi vài chiếc non.
Nẻo xa cánh bướm chập chờn,
Tình ta chan chứa tiếng đờn mỹ nhân.
Người đâu tài sắc tuyệt trần.
Ta đây thương phận trầm luân lỡ làng!”
2055- Trông qua đã thấy một chàng,
Khăn là, áo lượt dịu dàng thư sinh.
Khúc ngâm chưa phải tài tình.
Nhưng là gốc gác gia đình thi thư. (366)
Cả lòng nào rõ  thực hư
2060- Kiều làm sao biết gã lừa Sở Khanh! (367)
Phụ tình đứng nhất lầu xanh.
Biết bao kiều nữ tan tành vì y.  (368)
Nghĩ mình phận bạc lưu ly,
Lạ trời, lạ nước lạ khi ở nhà.
2065- Tâm thành nhờ cậy người ta.
Lửa lò may được thoát ra là mừng. (369)
Biết đâu cân nhắc dè chừng,
Biết đâu cạm bẫy, đoạn thừng đã treo.
Biết đâu vuốt hổ, móng mèo
2070- Lòng tin ân đức, nguyện theo phước bồ. (370)

Hà Nội năm 2007
 Đ - H


GÁI LÀNG CHƠI LỪA KHÁCH TRONG KIỀU THƠ CỦA ĐỖ HOÀNG

LỤC HUYỆT   ( 6 huyệt)
(429) Lục huyệt: 6 huyệt trên người phải đốt.
Huyệt 1: “ 1: 公心
Công tâm trùng nguyện” (Trai gái cùng cởi áo ra, da bụng dưới áp vào nhau, ngực đối ngực rồi lấy hương đốt.
(430) Tâm nguyện: Cùng chung lòng thề nguyện
(431) 2 : Huyệt “ Kết phát” - Huyệt hai -  Kết phát đình nguyện (Xe tóc cùng nguyện đốt): Trai gái hai đầu cùng sánh ngang nhau rồi lấy hương đốt vào huyệt.
(432) 3 :  Huyệt ba: Liên tình tả nguyện: (Thương tình cùng nguyện bên trái đốt) Cánh tay trái của gái làng chơi hợp với cánh tay phải của khách rồi cùng đốt
(433) ) 4;
 Liên tình hữu nguyệm (Thương tình cùng nguyện). Cánh tay phải của gái làng chơi hợp với cánh tay trái của khách rồi cùng đốt.
(434) 5:
Giao cổ tả nguyện (Huyệt trái cổ tay cùng nguyện - Cổ tay trái của gái làng chơi hợp với cổ tay phải của khách làng chơi rồi đốt.
(435) 6: : Giao cổ hữu nguyện (Huyệt phải cổ tay cùng nguyện) - Cổ tay phải của gái làng chơi hợp với cổ tay trái của khách làng chơi cùng đốt.







KIỀU THƠ (trích)





Ân tình khi đã mặn nồng,
Ra tay bẫy chúng vào vòng giao hoan (428).
Biết làm lục huyệt vẹn toàn. (429)
2470- Đến như bà chúa, ông hoàng cũng xiêu.
Nhất thì “Tâm nguyện” một điều, (430)
Gái trai áp bụng phải liều chịu đau.
Lấy hương phát hoả cho mau
Vết tích dưới rốn nhớ nhau mãi hoài!
2475- Nhị thì “Kết tóc” đừng sai (431)
Chụm đầu sấy lúc gái trai chạm người.
Tam thì huyệt “Tả tình đời”, (432)
Gái tay trái áp mặt người châm ngay.
Tứ thì huyệt “Hữu tình say”
2480- Gái tay mặt, trai trái tay hợp thành.
Dùng hương tiếp lửa thật nhanh
Giả vờ đôi lứa tác thành nhân duyên
Ngũ thì “Cùi tả tay tiên” (433)
Trái mình, phải khách dính liền châm hương.
2485- Lục thì “Cùi hữu tay vương”. (434)
Phải mình, trái khách chung đường tâm giao.
Đốt, siêu tài nghệ tuyệt cao,
Đều làm bao đấng anh hào tan hoang.
Nguỵ Tào triệu lính khoe khoang (435)
2490- Trúng ngay nhục kế của Hoàng xương phơi. (436)
Đoái nhìn thử hỏi trên đời,
Bao nhiều trai xuẩn trò cười thế gian.
Rồi thì lầu ngọc, nhà vàng.
Vì tình một phút tan hoang cửa nhà.
2495- Năm là giá thú bày ra, (437)
Đến như nhện cũng phải sa lưới tằm.
Mình thời lần lữa tháng năm
Đợi chờ họ đủ nghìn trăm tiền vàng
Mới hòng lấy ngọc khỏi hang (438)
2500- Nhởn nhơ ngày tháng tiêu tan hết tiền.
Chẳng cần trút rũ áo xiêm
Kẻ kia cũng phải quàng xiên chạy dài.
Sáu là tẩu, vụt như bay, (439)
Đó là kế sách cũng hay tuyệt vời.
2505- Ví bằng có khách làng chơi,
Hạng hèn tay trắng mồng tơi lần mò.
Không nhà, không bến, không đò.
Cưới xin chẳng có của kho mà chồng.
Đẩy y ra khỏi loan phòng
2510- Chỉ còn cách trốn mới mong lừa người.
Hẹn hò chờ chín, đợi mười.
Tâm thành khăn gói tìm nơi vượt rào.
Cậy nhờ đồn đại tin phao.
Quan trên đang bắt đôi nào gian dâm.
2515- Y liền khiếp đảm, sầu tâm.
Không lùa cũng tự âm thầm lỉnh đi.
Tán binh là kế lạ kỳ. (440)
Đà đao mắc phải còn gì mà mơ!
(còn nữa)
 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Thống kê
  • Đang truy cập26
  • Hôm nay1,486
  • Tháng hiện tại57,172
  • Tổng lượt truy cập9,189,946
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây