Nguyễn Quang Thiều và đám thơ “Vô lối” không đem đến một hình thức, nội dung gì mới mẻ cho văn chương nước nhà. Chúng chỉ tàn phá thi ca nghìn năm thiêng liêng của tổ tiên bằng một kiểu viết vô học, vô văn hóa, dâm dật bẩn thỉu, kênh kiệu, gian manh, trí trá, lươn lẹo, ném lựu đạn…đành lừa người đọc… Chúng đúng là một loại thi tặc – giặc thơ!
Hà Nội tháng 7/ 2022 Đ – H
Giặc Thơ 詩賊 – Thi tặc – giặc thơ, nguyên chữ Hán, nhà thơ Đỗ Hoàng có lẽ là người đầu tiên dùng chữ “ Thi tặc” để chỉ đám “thơ vô lối” đang hoành hành trên cõi Việt gần thế kỷ nay! vannghecuocsong.com Như đã viết “Thơ Vô lối” hoành hành trên cõi Việt cũng đã tiến gần một thế kỷ. Thanh Tâm Tuyền được coi là ông “Tổ” của đám này. Đến bây giờ ước chừng trên dười 20 tên gạo cội: - Thanh Tâm Tuyền, Lê Văn Ngăn, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Trần Hùng, Phan Hoàng, Phạm Đương, Inrasara, Nguyễn Khoa Điềm, Mai Văn Phấn, Thi Hoàng, Vi Thùy Linh, Tuyết Nga, Trúc Thông, Thanh Tùng, Hoàng Vũ Thuật, Phạm Đương, Đỗ Doãn Phương, Từ Quốc Hoài, Mã Giang Lân, Nguyễn Phan Quế Mai, Giáng Vân, Đinh Thị Như Thúy, Văn Cầm Hải, Mai Quỳnh Nam, Phan Huyền Thư, Phan Thị Vàng Anh…Tôi gọi đám thơ Vô lối này là loại “GiặcThơ”!. Bọn giặc thơ viết không có gì cách tân – mới mẻ cả nội dung lẫn hình thức. Nó còn cũ hơn trái đất. Chúng băng hoại thơ ca Việt bởi kiểu viết vô học, vô văn hóa, dâm dật bẩn thỉu, gian manh, trí trá, tham quyền, tham chức, táng tận lương tâm… Trong bài vịnh “Giặc Thơ” tôi có viết: “Vô lối một bầy viết ất ơ Ngu si đần độn chúa dâm dơ”… Nói thế chưa hết, đám này còn nhiều đặc điểm nữa: táng tận lương tâm,gian manh, trí trá, xỏ lá ba que, nịnh bợ , xu thời, quỵ lụy, hám tiền, hám bạc, hám chức quyền, gái gú, hiếp dâm, tứ đốm tam khoanh…. Chúng viết thơ không ra thơ, văn không ra văn, một thứ quỉ không cớ đầu, không có trái tim! Đa phần thơ Vô lối tôi đã dịch ra thơ Việt. Đa phần số Vô lối tôi đã viết chuyên luận về họ.Nhưng người u mê hoặc không hiểu biết đám Vô lối này vẫn ủng hộ họ, coi họ là văn nghệ sĩ…. Chúng nó làm thơ tiếng Việt mà không hiểu một tí gì về tiếng mẹ đẻ
Sự em đến như những sớm mai (Thanh Tâm Tuyền)
Sự mất ngủ của lửa. Sự ấm áp gối chăn (Nguyễn Quang Thiều)
Anh mải mê trên đường hoạn lộ (Nguyễn Khoa Điềm)
Chất vấn thói quen, cô gái nở nụ cười hàm tiếu (Phan Hoàng)
Mãi viên trà (Hoàng Vũ Thuật)
Người cư ngụ dưới căn nhà tồi tàn
trước ngọn đèn tồi tàn, người suy tưởng về sự thống khổ bần hàn trong thế gới bần cùng (Inrasara)…. Chúng dùng tràn lan từ Hán Việt chưa được Việt hóa.Trong khi nghìn năm trước cha ông ta đã rất giữ gìn sự trong sáng tiếng Việt.
Quen việc nhà mạ, lạ việc nhà chồng.
Việc nhà thì sáng, việc làng thì quáng.
Việc hôm nay chớ để đến ngày mai
Thời cận đại cụ Nguyễn Đình Chiểu thi tú tài Hán học nhưng thơ cụ rất thuần Việt: “Việc cày, việc bừa, viêc cấy tay vốn làm quen” Cụ Nguyễn Du: “ Chị dù thịt nát xương mòn Ngậm cười chín suối thân còn thơm lây”
Bọn thơ vô lối - giặc thơ viết rất gian manh, trí trá, giả mạo đảng viên: Nguyễn Khoa Điềm: “Mắt rưng rưng tôi nhớ hết từng câu Tôi đã hát trong buổi mình kết nạp”
Nguyễn Quang Thiều …Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua Như dao sắc phất vào tôi tứa máu Tôi nấc lên một câu hỏi như người sặc khói Rằng nếu tôi lấy họ Tôi sẽ ngủ với họ thế nào… … Mặt hồ thủ dâm nổi sóng. Nguyễn Bình Phương: Tôi anh lính phong tình Ngắm sương núi vờn quanh thân súng Lòng cồn cào vũ điệu giao long Vi Thùy Linh: “Khỏa thân trong chăn thèm chồng, thèm anh” Inrasara học Tây bẩn thỉu: “Lối hôn này cóp của Bardot, Fonda – ai biết thứ vuốt ve tối qua từa tựa The Pretty Woman” Hà nội 4/2022 Đ - H (còn nữa)
Ngôi nhà như không bao giờ mở cửa Một bà già đi tiểu lần thứ 5 nói : "Mẹ đau lắm" Nguyễn Bình Phương Xanh thế kia chắc chắn là cây đấy Chậm và cồng kềnh như thế sẽ là mây … Trong phiên gác đêm đêm tôi thường thấy Trắng bồng bềnh như vậy đúng là em …
Nguyễn Khoa Điềm Mắt rưng rưng tôi nhớ hết từng câu Tôi đã hát trong buổi mình kết nạp … Nhưng chiều nay con bò gặm cỏ Bên dòng sông như chưa biết chiều tan Tôi với nó lặng im bè bạn Mắt nó nhìn dìu dịu nước Hương Giang … Đêm đêm cái nghèo vuốt ve trán người chồng Khẻ nâng bàn tay người vợ Đặt cái hôn lên đôi chân trần đứa trẻ Và thầm ngủ ngon… ngủ ngon… … Cõi lặng. Tôi vượt qua ghềnh thác Đến những miền trong xanh… Hoàng Hưng "Bão loạn. Lốc dù. Xanh mí. Cốc ré. Váy hè. Tiện nghi lạc-xon. Chất chồng trô trố.” (Môi ngang. Vô hồn. Khoảnh khắc. Mi-ni mông lông. Cởi quần, chửi thề. Con gà quay con gà quay". ( thơ Hoàng Hưng) Phan Hoàng CHẤT VẤN THÓI QUEN sáng sáng tôi hay đến ngồi vào chiếc ghế ấy nhâm nhi ly cà phê cứt chồn đọc báo nhìn cô chủ quán nở nụ cười hàm tiếu
INRARA
Rồi người Việt từ phương Bắc tới lại yêu nhau / nên xóm nên làng Trước đó người Sa Huỳnh – không biết từ đâu / về đâu gốm nung làm dấu chân ơn nghĩa. Mốt mai Còn ai đến trú
NGUYỄN QUANG THIỀU (詩賊 - 阮光昭) – Thi tặc – giặc thơ Ltg : 詩賊 – Thi tặc – giặc thơ, nguyên chữ Hán, nhà thơ Đỗ Hoàng có lẽ là người đầu tiên dùng chữ “ Thi tặc” để chỉ đám “thơ vô lối” đang hoành hành trên cõi Việt gần thế kỷ nay! vannghecuocsong.com Như đã viết “Thơ Vô lối” hoành hành trên cõi Việt cũng đã tiến gần một thế kỷ. Thanh Tâm Tuyền được coi là ông “Tổ” của đám này. Đến bây giờ ước chừng trên dười 20 tên gạo cội: - Thanh Tâm Tuyền, Lê Văn Ngăn, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Trần Hùng, Phan Hoàng, Phạm Đương, Inrasara, Nguyễn Khoa Điềm, Mai Văn Phấn, Thi Hoàng, Vi Thùy Linh, Tuyết Nga, Trúc Thông, Thanh Tùng, Hoàng Vũ Thuật, Phạm Đương, Đỗ Doãn Phương, Từ Quốc Hoài, Mã Giang Lân, Nguyễn Phan Quế Mai, Giáng Vân, Đinh Thị Như Thúy, Văn Cầm Hải, Mai Quỳnh Nam, Phan Huyền Thư, Phan Thị Vàng Anh…Tôi gọi đám thơ Vô lối này là loại “GiặcThơ”!. Bọn giặc thơ viết không có gì cách tân – mới mẻ cả nội dung lẫn hình thức. Nó còn cũ hơn trái đất. Chúng băng hoại thơ ca Việt bởi kiểu viết vô học, vô văn hóa, dâm dật bẩn thỉu, gian manh, trí trá, tham quyền, tham chức, táng tận lương tâm… Trong bài vịnh “Giặc Thơ” tôi có viết: “Vô lối một bầy viết ất ơ Ngu si đần độn chúa dâm dơ”… Nói thế chưa hết, đám này còn nhiều đặc điểm nữa: táng tận lương tâm,gian manh, trí trá, xỏ lá ba que, nịnh bợ , xu thời, quỵ lụy, hám tiền, hám bạc, hám chức quyền, gái gú, hiếp dâm, tứ đốm tam khoanh…. Chúng viết thơ không ra thơ, văn không ra văn, một thứ quỉ không cớ đầu, không có trái tim! NGUYỄN QUANG THIỀU VIẾT RẤT VÔ HỌC, VÔ VĂN HÓA, DÂM DẬT BẨN THỈU, SÁO, SẾN, HÔ KHẨU HIỆU…(tiếp theo kỳ trước) Đỗ Hoàng Bọn thi tặc – giặc thơ không có trái tim Thi sĩ ! Tôi đã có nhiều chuyên luận phê bình « thơ Vô lối » và dịch hàng chục bài vô lối của Nguyễn Quang Thiều ra thơ Việt, nay ngắn gọn chỉ những chỗ Thiều viết rất vô học, vô văn hóa, dâm dật bẩn thỉu ! Thiều học phổ thông rất lổ mổ nên toán pháp, suy luận, lô gic học , văn luận rất gà mờ ! Ngay mới lên cấp 2, trung học cơ sở các em học sinh đã học về toán : phân số , giản ước phân số ; về văn , viêt trong sáng câu văn. TOAN : Tìm phân số chỉ một nửa ? Các em sẽ tìm rất nhiều phân số chỉ một nửa. ½,3/6,4/8, 250/500, 400/800…Nhưng đã học giản ước phân sơ, các em phải đưa về phân số tối giản. Vậy ½ là đáp án cuối cùng. Điều này rất thuận lợi cho việc giải các phép tính về phân số. VĂN : Làm trong sáng câu văn, bỏ chữ thừa thì, là, và, mà ; chữ lặp lại….Bác Hổ thì, là, và, mà nói : « Không có gì quý hơn độc lập tự do ».Bỏ thì, là, và, mà , chỉ viết : Bác Hồ nói : « Không có gì quý hơn độc lập tự do ». Câu của Nguyễn Quang Thiều – Thi tặc : « Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy » Chỉ cần viết : « Nửa đòi tôi thấy là đủ ». Bỏ được 10 chữ thừa ! Vô học đến thế là cùng ! Mấy câu : « Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen tõe ra như móng chân gà mái Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy Những người đàn bà xuống gánh nước sông ( Những người đàn bà gánh nước sông) Vừa vô học, vô văn hóa, thất đức ! Không ai tả thực cái xấu xa của cô, bà, mẹ ,dì…từng chi tiết cụ thể như thế ! Đúng là giặc thơ ! Đáng lên án là bài « Những người đàn bà gánh nước sông » được tuyển chọn 100 bài thơ hay ( !) thế kỷ XX. Kẻ tuyển chọn, người in, lăng bị tùng xẻo, càu đầu trảm không oan chút nào ! Bài « Bài hát về cố hương » cũng một bài vớ vẩn : « Kiếp này tôi là người Kiếp sau phải là vật Tôi xin ở kiếp sau là một con chó nhỏ Để canh giữ nỗi buồn – báu vật cố hương tôi./. » (Bài hát về cố hương – Sự mất ngủ của lửa)… Không có ai được làm kiếp người rôi kiếp kiếp lại mơ làm kiếp vật ! Chỉ kẻ điên rồ mới ước làm như thế. Rồi lại còn : « Tôi xin ở kiếp sau là một con chó nhỏ . Để canh giữ nỗi buồn – báu vật cố hương tôi./. ». Aragong người Pháp, mà người Pháp họ rất yêu súc vật, nhất là cho con. Con đẻ họ để đi dưới đát, chứ chó thì họ bế trên tay. Aragong trong tình yêu với Enxa ước minh thành con chó nhỏ để người yêu bồng bế trên tay là ước muốn đúng và chân thành. Còn cái ước thành chó của Nguyễn Quang Thiều là cái ước chó má. Cái ước đã chó má rồi cái định nghĩa “Nỗi buồn - báu vật cố hương tôi” càng chó má hơn! Báu vật thường là vật thể, hiếm, quý như vàng, ngọc….Nếu nhiều quá, mãn tải như không khí dù ngừng thở một phút là chết cũng không ai gọi báu vật! Nỗi buồn cố hương hay nỗi buồn kiếp người nhiều mãn tải ai lại gọi báu vật? Viết, định nghĩa như vậy rất vô học, vô văn hóa. Nguyễn Quang Thiều luôn viết dâm loạn, vô văn hóa và bẩn hơn nhà xí như vậy: … « Và vẫn nhìn thấy Một người đàn bà Tắm trong một toilet không có rèm che Kỳ cọ như tuốt hết da thịt mình Và vẫn nhìn thấy Cuộc làm tình ban ngày Của những kẻ thất nghiệp Trong chính công sở của họ…” (Một bài thơ viết ở Hà Nội)
Viết lúc 10 giờ 13 phút
H ngủ muộn. 10h13 phút chưa dậy. Những sự sống trôi qua chiếc giường. Những cái chết trôi qua chiếc giường. Và H nhìn thấy trong giấc ngủ Một tấm thân đàn ông nóng rừng rực Trôi qua chiếc giường và dừng lại ở một khoảng trên đầu
lúc 10h13 một người đàn bà khác khoả thân trong một chiếc giường đặt ở giữa thành phố Bẩn thỉu, vô học, vô văn hóa, mất vệ sinh: … “Một đêm mẹ đi tiểu 5 lần. Mẹ kêu đau quá” (Lịch sử tấm thảm Thổ Nhĩ Kì) (Nguyễn Quang Thiều)
*
Nguyễn Quang Thiều và đám thơ “Vô lối” không đem đến một hình thức, nội dung gì mới mẻ cho văn chương nước nhà. Chúng chỉ tàn phá thi ca nghìn năm thiêng liêng của tổ tiên bằng một kiểu viết vô học, vô văn hóa, dâm dật bẩn thỉu, kênh kiệu, gian manh, trí trá, lươn lẹo, ném lựu đạn…đành lừa người đọc… Chúng đúng là một loại thi tặc – giặc thơ!