ĐƯỜNG TỚI THÀNH PHỐ - SÁO, DỞ, NHẠT, NHẮNG - TỨ CHỨNG THI Y Đỗ Hoàng Đường tới thành phố, trường ca của Hữu Thỉnh xuất hiện đầu thập kỷ 80 thế kỷ trước (tác giả viết xong 1977 - 1978), được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. Từ đó đến nay, văn học chính thống không biết cơ man nào tác giả, báo chí ca ngợi đưa lên mây xanh , coi nó coi nó là đại diện cho thơ chống Mỹ (!) Bây giờ sau gần nửa thế kỷ cuộc chiến đã tàn, tôi có dịp bình tâm, bình tĩnh đọc lại Đường tới thành phố để có nhận định đánh giá một cách công tâm về tác phẩm này!
ĐƯỜNG TỚI THÀNH PHỐ - SÁO, DỞ, NHẠT, NHẮNG - TỨ CHỨNG THI Y Đỗ Hoàng Đường tới thành phố, trường ca của Hữu Thỉnh xuất hiện đầu thập kỷ 80 thế kỷ trước (tác giả viết xong 1977 - 1978), được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. Từ đó đến nay, văn học chính thống không biết cơ man nào tác giả, báo chí ca ngợi đưa lên mây xanh , coi nó coi nó là đại diện cho thơ chống Mỹ (!) Bây giờ sau gần nửa thế kỷ cuộc chiến đã tàn, tôi có dịp bình tâm, bình tĩnh đọc lại Đường tới thành phố để có nhận định đánh giá một cách công tâm về tác phẩm này! Trước hết, chưa nói Đường tới thành phố ảnh hưởng Tàu lấy nông thôn bao vây thành thị, súng đẻ ra chính quyền; chưa nói dài dòng văn tự, chưa nói hay dở...mà nói nó không chính danh! Đường tới thành phố kể lại tâm tư của người lính, người dân phe thắng trong cuộc chiến nảy lửa hai miền Nam Bắc Việt Nam thống nhất giang sơn. Phe miền Bắc Việt Nam đã thắng. Thống nhất giang sơn có ý nghĩa to lớn đối với một dân tộc, một tổ quốc. Ngày xưa người thường dùng gươm đao để tranh đoạt. Thời văn mình có nhiều cách thống nhất giang sơn mà tránh được đầu rơi máu chảy, hận thù dân tộc Đông Đức, Tây Đức, Ấn Độ ... vô cùng đáng quý. Việt Nam thống nhất bằng binh đao nên gây nên oán hờn hơn sông núi còn đến muôn năm! Thật ra cuộc chiến Nam Bắc Việt Nam là một cuộc nội chiến tàn khốc bên nào cũng muồn giành chiến thắng - tức là thống nhất giang sơn. Hơn 20 năm chia cắt, hai bên đã cố hết mình với trí lực huy động hết đem ra hạ thủ đối phương! Miền Bắc Việt Nam nói xấu miền Nam Việt Nam: "Diêm Đình Ngộ là Ngô Đình Diệm Đầu rơi trên máy chém Lê khắp miền Nam Này bạn này anh Trúng đích rồi, kìa là trúng đích rồi Nhằm cho đích, ta ném cho tinh Trúng đầu thằng Ngô Đình Diệm là thằng Diêm Đình Ngộ"... (Lời bài hát trong các trường tiểu học, trung học Bắc Việt) ..."Bên kia sông không ra đỏ ra vàng Cờ ba que hoen úa cả không gian'... ... Mỹ, Kỳ - Thiệu là những tên giòi bọ..." (Tế Hanh - Nhà thơ) ..."Chúng xáo trộn quê ta như xóc một ván bài Bao tên tíỉnh, tên huyện, tên làng đều thay đổi... ... Nhưng bộ áo quần rằn ri, những tâm hồn vằn vện..." (Chế Lan Viên - Nhà thơ) Miền Nam Việt Nam nói xấu miền Bắc Việt Nam : Cụ Ngô thống nhất sơn hà Già Hồ chia cả nước nhà làm hai ... Việt Nam dân chủ cộng hòa Con trâu bán trước cái nhà bán sau ... Mất mùa bởi tại thiên tai Được mùa nhờ có thiên tài đảng lo ... Việt cộng bảy đứa đeo cành đu đủ không gảy..." ... Hẹn một ngày về lại cố đô Lưỡi lê no máu của quân thù! (Thơ Bắc tiến) Đấu khẩu không ai thắng ai. Hai miền căng ra đấu sức. Miền Bắc Việt Nam, Trung cộng viện trợ tất tần tật độ 20 tỷ đô la. Liên Xô viện trợ cho miền Bắc tính ra tiền cũng bằng ấy. Miền Nam Việt Nam, Mỹ cũng viện trợ bằng Liên Xô, Trung Quốc cộng lại cho miền Bắc. Chỉ còn người Việt Nam da vàng, máu đỏ giày xéo nhau, giết nhau cho đến chết! Miền Bắc mạnh hơn, gian hơn, độc hơn...đã thắng miền Nam. Quân đội miền Bắc thẳng tiến đến Sài Gòn bắt miền Nam đầu hàng không điều kiện. Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh kể về việc này. Nhưng Hữu Thỉnh viết Đường tới thành phố, người đọc thấy không chính danh, không rõ lý do gì mà ta phải đi tới thành phố? Đường tới thành phố có 5 chường: chương I: Ngọn lửa chiến trường, chương II: Tư lệnh, chương III: Điệp khúc những cây cầu, chương IV:Tờ lịch cuối cùng, chương, V: Tự do. Đọc gần hết chương I - Ngọn lửa chiến trường không biết nhóm lính hay thợ sơn tràng ở rừng đốt lửa đi đâu, về đâu. Ít nhất phải có một đề từ "Hễ còn một tên tay sai của giặc Mỹ, ta phải quét sạch nó đi". Đằng này "tuyệt vô âm tín", không ai biết "đường tới thành phố" để làm gì? Mãi đến kết thúc chương mới vỡ lẻ ra: họ đánh về thành phố, đồng bằng. ..."Ngày mai chúng mình tiến về thành phố Mọi vui buồn không còn lá rừng che Không còn cánh đồi chắn gió cho ta Ta kéo áo khum tay mà châm thuốc Ta sẽ loay hoay thổi nấu giữa trời Giấu được khói thì chính ta bị lộ Lúc leo dốc ta vẫn thèm đường nhựa Vượt đường rồi chân lại phồng ra Nhà đông hơn, người cũng đông hơn Giường chiếu sẵn lại nhiều khi khó ngủ Tiếng thạch sùng - tiểu đội bấm chân nhau Đồng Bằng Đồng Bằng Ta vẫn khát khao Ta vẫn đợi những gian nan trận cuối ..." Không biết họ đánh xuống đồng bắng vì lẽ gì? Lý do đánh trận cuối không nói. Đánh vì gì, không rõ. Nói chung là mù mờ, khuất tất! Hữu Thỉnh chỉ có nói họ ham thích đường nhựa (Lúc leo dốc ta vẫn thèm đường nhựa). Thành phố có 4 Đờ (Đ) mà - Điện, đường, đồng (tiền), đĩ! Ai chả thích! Cứ gì lính. Vậy là danh không chính. Con người khi nói dù một tiếng, một từ cũng phải chính danh. Tốt, xấu; hơn, thua; hiền, ác; giàu, nghèo; mạnh, yếu; ta thắng, địch thua; ta tốt, địch xấu...Các ngành nghệ thuật, thơ ca cũng vậy. Một từ, một câu, một bài thơ ngắn dài đều phải chính danh:
南國山河 李常傑 南國山河南帝居, 截然定分在天書。 如何逆虜來侵犯, 汝等行看取敗虛。
Nam quốc sơn hà Lý Thường kiệt Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Dịch thơ: Sông núi nước Nam, vua Nam ở, Rành rành định phận tại sách trời. Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm? Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời. (Hoàng Xuân Hãn) "Cái vết thương xoàng mà đưa đi viện Hàng nhiều còn đó, máy xe reo Nằm ngả nhớ trăng, nàm nghiêng nhớ bến Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo! (Phạm Tiến Duật) ..."Nước Mỹ có đất trời bát ngát Nhưng tình người nhỏ tựa que tăm Hận chúng nó làm nước mình nghèo xí Hận vô cùng khi chúng đánh ta văng!..." (Cao Tần) 龍城光復己寔 何物逆賊來侵犯 王師一怒威武揚 長驅直到真神速 如從天降难抵當 火龍一陣賊非美 弃城刧渡争跳生 三軍五館整队进 百姓爝躍服到迎 雲雨魃开見天日 滿城老覜俱歡顔 靡堅把履群镶語 故都還是我河山
LONG THÀNH QUANG PHỤC KỶ THỰC
Hà vật nghịch tặc lai xâm phạm Vương sư nhất nộ uy vũ dương Trường khu trực đáo chân thần tốc Như tòng thiên giáng nan để đương. Hoả long nhất trận tặc phi mỹ, Khí thành kiếp độ tranh đào sinh Tam quân ngũ quán chỉnh đội tiến, Bách tính tước dược phục đáo nghênh. Vân vũ bạt khai kiến thiên nhật, Mãn thành lão thiếu câu hoan nhan. Ma kiên bả lý quần tương ngữ: Cố đô hoàn thị ngã hà san.
Dịch nghĩa:
Bọn giặc vì cớ gì mà điên cuồng đến đây? Quân của nhà vua phẫn nộ nêu cao uy vũ. Rồi thần tốc xông thẳng tới, Như từ trên trời giáng xuống, không ai kháng cự nổi. Một trận "rồng lửa" làm cho giặc tan tành, Chúng bỏ thành cướp đò tìm cách chạy trốn. Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiến lên, Trăm họ mừng rỡ đón tiếp đầy đường. Mây quang mưa tạnh, thấy lại mặt trời, Đầy thành trẻ già mặt tươi như hoa, Họ chen vai thích cách tranh nói với nhau: Cố đô vẫn thuộc núi sông của ta. (Ngô Ngọc Du - Thời Tây Sơn)
平吳大告 阮廌
..厥有明徵。 頃因胡政之煩苛。 至使人心之怨叛。 狂明伺隙,因以毒我民; 惡黨懷奸,竟以賣我國。 焮蒼生於虐焰, 陷赤子於禍坑。 欺天罔民,詭計蓋千萬狀;.. Đại cáo bình Ngô - Nguyễn Trãi ...Quyết hữu minh trưng. Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà. Chí sử nhân tâm chi oán bạn. Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân; Ác đảng hoài gian, cánh dĩ mại ngã quốc. Hân thương sinh ư ngược diệm, Hãm xích tử ư hoạ khanh. Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng;... Vừa rồi: Nhân họ Hồ chính sự phiền hà Để trong nước lòng dân oán hận Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế...
予: 奮跡藍山, 棲身荒野。 念世讎豈可共戴, 誓逆賊難與俱生。 Dư: Phấn tích Lam Sơn, Thê thân hoang dã. Niệm thế thù khởi khả cộng đới, Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh.... Ta đây: Núi Lam sơn dấy nghĩa Chốn hoang dã nương mình Ngẫm thù lớn há đội trời chung Căm giặc nước thề không cùng sống... Không chính danh là không quân tử. Là tà đạo! Cha ông chúng ta rất chính danh. Tổ tiên đã dạy: 名正言順, 言順事必成 - Danh chính thì ngôn thuận; Ngôn thuận sự tất thành! Mà cũng theo lời dạy của tiên tổ:名不正言不順, 言不順事不成 - Danh bất chính, ngôn bất thuận; ngôn bất thuận, sự bất thành! Đường tới thành phố gọi là trường ca, thực ra nó là một bài kể lể viết cho thật dài, kiểu viết lê thê con cà con kê thời đánh Mỹ của một nhóm văn mậu dịch "mẹ tập con đi, đảng dạy con đi, bác chỉ lối con đi" đúc kết trong mấy câu: "Thơ như thơ các ông Chỉ có toàn hò hét Trang trang đều dài dòng .Câu câu đều nhạt hoét!" Trước hết, cái tên ý đồ Đường tới thành phố bê nguyên xi ý tưởng Tàu cộng "Lấy nông thôn bao vây thành thị": 毛泽东: 关于农村包围城市、武装夺取政权思想的提出- 中国军网 Những ý tưởng của Mao Trạch Đông về việc bao vây thành phố từ vùng nông thôn và nắm quyền lực của các lực lượng vũ trang - Mạng quân sự Trung Quốc. ...以毛泽东为主要代表的中国共产党人正因为坚持了这样一条辩证唯物主义的思想路线,善于向实践学习,向群众学习,善于总结群众斗争的新鲜经验,所以才能够在中国革命的转折关头,表现出革命的首创精神,显示出巨大的理论勇气,提出农村包围城市、武装夺取政权道路的思想,从而为复兴中国革命和争取中国革命的胜利指明了唯一正确的道路。中国军网 "Cộng sản Trung Quốc, với Mao Trạch Đông là đại diện chính, tuân thủ đường lối tư tưởng duy vật biện chứng như vậy, giỏi học hỏi từ thực tiễn, học hỏi từ quần chúng và tổng kết kinh nghiệm mới trong các cuộc đấu tranh quần chúng, vì vậy họ có thể thực hiện bước ngoặt của cách mạng Trung Quốc. Tinh thần tiên phong của cách mạng, thể hiện sự can đảm về mặt lý thuyết, đưa ra ý tưởng về con đường lấy nông thôn bao vây các thành phố và giành lấy quyền lực, từ đó chỉ ra con đường chính xác duy nhất cho sự hồi sinh của cách mạng Trung Quốc và chiến thắng của cách mạng Trung Quốc." - Báo mạng Quân sự Trung Quốc Hữu Thỉnh trưởng thành từ anh làm báo liếp tiểu đội học hành thấp, chắp vá, nên thơ Hữu Thỉnh hội tụ đủ bốn chứng bệnh "Thi Y" thuộc loại nan y: sáo, dở, nhạt, nhắng" mà Biển Thước, Hoa Đà cũng đành thở dài lắc đầu, cắp nón bỏ ra về không chữa nổi!. Trường ca Đường tới thành phố càng thiện hiện rõ hơn điều này: Sáo: ...Tôi yêu gió tôi thành người đứng hát Tôi hát rong qua thanh sắt của mình Bài ca ấy nhiều người đã thuộc Vẫn điệu chèo, điệu lý quê hương Lắm khúc vui nhưng không hóa véo von Có khúc buồn nhưng cuộc đời vốn khỏe Tôi gọi về những tuổi những tên Như mùa thu gọi heo may rải rác Với thời gian tôi xin làm đá tạc Hỡi mây trời hãy xuống hát cùng tôi... (Chương II - Điệp khúc những cây cầu) Hay: ... "Nước da ta thiếu máu gọi Người Quần áo ta ẩm mốc gọi Người Khi ta bò lên giữ một gốc sim Ấy là khi ta nghe Người giục giã Khi ta đốt lên đống lửa Những bãi rễ cây lại nhắc về Người..." .... ..."Trên vai anh nóng bỏng Tự Do Con đã từng khóc Bác ở trong rừng Phải dựa vào cây trong đêm truy điệu Chiếc Orionton giàn giụa nước mưa Bài điếu văn nghe khi rành khi mất Trong buồng lái xe tăng nhỏ hẹp Chúng con nâng niu tấm ảnh của Người Giấc ngủ bữa ăn hành quân đuổi giặc Không lúc nào chúng con vắng Bác Con đã về nơi Bác ra đi Đường lắm dốc hôm nay con mới tới Chúng con về như Bác vẫn từng mong Đất nước liền một dải Đã trở về từng hạt muối ngoài khơi Từng đọt măng trên rừng, từng đám mây lưu lạc Tất cả dưới bàn tay của Bác Hóa thiêng liêng máu thịt tự hào Chúng con thèm nghe Bác nói một câu Giữa bến Nhà Rồng mênh mông trời nước Thèm nghe thơ, thèm đôi tay bắt nhịp Để vui hết những gì ta có được hôm nay Hạnh phúc nhân dân - mơ ước tột cùng Người cao cả tận ngọn nguồn thương nước Sông trôi mãi nhưng bờ còn giữ được ánh mắt Người sâu vợi suốt thời gian Đang tỏa khắp đang ân cần căn dặn "Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta Thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi"... (Chương V - Tự do) Và: ..."Sống làm người chiến thắng Cho mẹ mình, cho đời mình đỡ khổ Còn ao ước nào hơn Tự do và Đoàn tụ Vào rừng lấy mật và đẵn gỗ Thương mẹ và yêu em Còn hạnh phúc nào hơn Tổ quốc!..." (Chương I - Nhừng ngọn lửa) ..."Đất vụn nát trong bữa tiệc quay cuồng của thép Máy ủi hết ngọt ngào trên mỗi trái tim Ủi rồi lấp Bằng chính đất mà chúng vừa chiếm được Trời ơi nếu kẻ thù chiếm được Chỉ một gốc sim thôi dù chỉ gốc sim cằn Tổ quốc sẽ ra sao? Tổ quốc? Thơ ơi thơ hãy ghì lấy gốc sim Anh đang bò về phía gốc sim..." (Chương I - Ngọn lửa chiến trường) Và: ..."Tôi thấy rõ nhân dân xanh lẫn vào cây chàm cây đước Nhân dân tự do Triệu bàn tay dằng dịt ôm bờ Ghì lấy từng con tôm con tép Ghì lấy dấu chân ai khỏa thượng nguồn Cũng tìm về cuối đất Nhịp triều thịnh vượng mũi Cà Mau Nhân dân chia mình ra các đảo Làm vệ tinh Yên dạ những con tàu Nhân dân có tên là Bình, là Nghĩa, là Tỏ, là Thu Là xạ thủ trung liên Là báo vụ viên Là Phấn khí tài, là quỳnh quản lý Đã tới đảo bằng mũi tàu truy quét Dựng lên đảo pháo đài mắt thức Yêu đảo bằng cánh tay dài rộng đất liền Tôi đang đi trên đảo chẳng bình yên Nghe rõ lắm lời tuyên ngôn của cát Ném tơi bời trên da thịt nóng rang Biển lại hát bài hát cũ Biển luôn luôn muốn chứng tỏ mình Khao khát Sóng nồng nã không có gì ngăn được Sóng mênh mông thử sức con người... (Chương V - Tự do) Tiếp:
....."Chỉ còn lại nhân dân vằng vặc dưới sao trời Nhân dân trở về qua tay người móc nối Qua lời ru gửi gắm xa xôi Anh không quên mang trăng vào nhà Trăng buồn trăng phải sáng qua vườn người Nhân dân bao dung tin vào nhân nghĩa Gọi về dăm ba tên tuổi lạc loài Ôi nhân dân! Tấm lá chắn diệu kỳ Người nhận mọi vết xăm cho căn hầm nguyên vẹn Người thâm trầm như đêm Người tinh nhạy như đêm Người kéo co giành giật lại đôi kèo..." (Chương III - Điệp khúc những cây cầu) Dở: ..."Những người mới đến Không biết bằng cách nào lửa đã nhóm lên Như không phải củi rừng đang cháy Có gì đó trong đốm tàn hoa cải Cứ bay lên làm nhẹ cả người ngồi Lửa vun cao vách đất bóng người Đang ấm lại bao nỗi niềm để ngỏ Tiếng suối đổ, hãy nghe suối đổ Chảy cồn cào ngang dọc mỗi tâm tư Chào ngọn lửa Xòe bàn tay lạnh cóng Chúng tôi hơ Chúng tôi sưởi một chặng đường tất bật Ngày mai lại nhớ về nơi này Lại nhớ nhau Người còn người mất Lại nhớ mình Có lúc Ngồi thảnh thơi như chẳng bận điều gì Lửa ném tàn xua muỗi bay đi..." (Chương I - Ngọn lửa chiến trường) Hơn 3 trang độ 150 câu nói những cáu chung chung vô bổ , không rõ ràng minh bạch gì cả. Đường tới thanh phố có vô số những đoạn dở hơi như thế này! Tuy cũng là dòng tụng ca, cổ động, nhưng Phạm Tiến Duật hoành tráng hơn, có nhân dân, có lịch sử: "Những sư đoàn đi dài Một phần dân mình đó Cũng một phần đời ta Cũng một phần lích sử"... Trích trường ca Những vùng rừng không dân" của Phạm Tiến Duật Hữu Thihr sinh viết lục bát mà lục bát quá kém, ít cạn, lới nhạt, đơn điệu, sơ sài từ khi nhập vào làng văn chương cho đến đầu bạc răng long:: Vô số những câu lục bát sơ sài, luôn lỗi vận: ... Mùi mồ hôi, mùi rễ cây Mặn nồng sẽ kể với người đến sau... Nên sửa: (Mùi mồ hôi, mùi rễ cây Mặn nồng kể với con cầy đến sau) ... Bắt đầu từ một cánh tem Sao mai chốt đỉnh trăng đêm mại dần Muỗi bay tối một góc rừng Lần theo muỗi gặp chùm sung, gặp người..." ...Con đường qua tháng, qua năm Núi đau lở đá, rừng bầm tận cây Vai gùi bước xốp trong mây Ta đi làm những mặt trời của nhau..." ..."Đêm qua bên ấy ru Kiều Làm ta căm mãi cái mưu Tú Bà" Đêm qua bên ấy ru Kiều Bên này ta đã thiu thiu ngũ rồi..." (Nhà đồi - 1962) ...Ai qua Lệ Thủy, Xuân Bồ Nhà ta binh trạm cải gù, gà choai..." (Âm vang chiến hào 1975 - In chung với Lâm Huy Nhuận) ..."- Mình đang làm sử chiến tranh Có cần nghe một mối tình dở dang?" Nên sửa: (Mình đang làm sử chiến chinh Có cần nghe một mối tình dở dang) "Chúng em chẳng sợ địch lùng Đêm nằm sợ tiếng ru con trên đài" Nên sửa: Chúng em chẳng sợ địch còn Đêm nằm sợ tiếng ru con trên đài) (Chương II - Tư lệnh - Đường tới thành phố - Giải thưởng Nhà nước) ...Ra sông lấy sóng mà yêu Lên nuí thì cứ lấy đèo mà tin..." Nên sửa: (Ra sông lấy sóng mà yêu Lên non cứ vị cây điều mà tin) (Trường ca Biển - Giải thưởng Hồ Chí Minh - 2015) Nhạt: Nhạt cũng thuộc tứ chứng Thi Y - vô phương cứu chữa. Hữu Thỉnh bị căn bệnh này quá trầm kha! ...:"Và anh Ý nghĩ lăn qua viên đạn cuối cùng Giặc đổ quân sau rừng Ủi và đốt Cây thở dài trên đất Tàn bay tung "Cán gáo" thõng đôi càng Man rợ xoáy Đóng đinh vào chân tóc Bới rừng lên Thả xuống lời ngon ngọt - "Hỡi cán binh cộng sản, hãy ra hàng Tổng thống sẽ Tổng thống sẽ Tổng thống sẽ..." Thơm tho và ngọt xớt Đảo nửa vòng lại ngọt xớt thơm tho Rừng quay mặt nghe gió bò trên đá Bò trên rêu Ẩm ướt Trên lưng..." (Chương II - Tư lệnh) Hoặc: ..."Ta sẽ uống cho nguôi trăm cơn khát Từ đôi tay em gái bổ dừa Sẽ gặp má ta sẽ làm nũng má Ra vườn hái ổi hát ngu ngơ Em ơi em, anh không sao viết kịp một dòng thư Thương nhớ là gì mà anh mang nặng thế Buồng lái xe tăng nóng bức thế này Em chẳng đến được đâu, mở cửa lên vẫn nóng Mở cửa lên là vòm trời cao rộng Em ở đâu trong thương nhớ của anh Em ở đâu đất trời không bờ bến Cổ ta khô sao nắng quá vô tình Trong cáp nghe trăm tín hiệu vọng về Anh nghe rõ những vì sao tít tắp..." (Chương III - Điệp khúc những cây cầu) Nhắng : Kiểu vòng vo tam quốc, lộn xui,lộn đụn, nhắng nhít vô cùng khó chịu: ..." Anh đã qua những ngày tưởng chừng không qua nổi Nụ cười bán tín bán nghi Giỗ tết tường trình liên gia kết phái Chúng chồng tiền một cái đầu đảng viên Chúng chuốc rượu cho một thằng phản bội Chúng phục kích ngoài mí vườn Chúng rình rập sau một đôi kiếng mát Thằng Đại Việt, lũ hội đồng Cắt máu ăn thề trên lá cờ ba sọc "Với cộng sản thì phải bừa tận gốc" Những tên lính xăm hầm Mài thuốn xuống sân xi-măng nhà xã trưởng Nhạc dạo đầu cho một ngày "bình định" Chó nghe chó chạy cuồng Gà nghe gà bỏ ổ Cây nghe cây thui từng chiếc rễ Người nghe nắn túi sờ căn cước Những đồng tiền nghe bật khỏi tủ khỏi rương Chéo đội hình cánh sẻ Chúng bắt đầu "phụng sự quốc gia" Chúa được hôn bằng hơi rượu say mềm "Xin Chúa ban cho chúng tôi hàng ngày dùng đủ và tha nợ chúng tôi" Câu kinh rơi giữa hai hàng dân vệ..." (Chương III - Điệp khúc những cây cầu) Nối: ..."Hôm nay và hôm qua Ở đây và nơi khác Chẳng sợ nhàm Mặt trời cháy với một niềm mong mỏi Mỗi hạt cát hành tinh cũng phát sáng như mình Em ơi em, em là biển của đời anh Là vụng kín Là bến bờ nương tựa Em làm anh bận rộn ngày ngày Em làm anh nóng nực ngày ngày Anh chìa ca nhận phần nước hiếm hoi Để em thấm vào anh khúc ngọt ngào chia sẻ Em làm anh tơ non Em làm anh mạnh mẽ Cứ vẫy vũng như đảo của ta Biển nguội dần vỗ tím vào đêm Những cánh chim Khép chiếc ô râm mát Những chiếc ô biến thành lời ru Nựng nhau quanh nhà bạt Đó là lúc đảo cất lên tiếng hát Những bàn chân sánh ướt lân tinh Đảo độc thoại dưới trời sao rộng rãi Sóng mang đi âu yếu đất liền Và anh Anh biến thành một tấm áo choàng Che đồng đội những cơn mưa xích đạo.! Ngoài ra Đường tới thành phố còn bị hàng trăm căn bệnh khác sến, sơ sài, ôm đồm, dài dòng văn tự, sính nói triết lý, chữ nghĩa lòng thòng, ba voi không ngọt bát xáo, hát ca dở hơi tùy hứng...
Biển lại hát ca bài hát cũ
Tôi yêu gió tôi thành người đứng hát
Tôi hát rong qua thanh sắt của mình
Cây đàn ấy hát bằng màu áo
Tôi đã nghe bài hát xốn xang lòng
Các cô gái làm đường đi đào củ chụp
Hát về rừng đừng bắt chước tiếng chim
Nựng nhau quanh nhà bạt
Đó là lúc đảo cất lên tiếng hát
Em vừa đào vừa hát Sài Gòn ơi!
Sài Gòn ơi, ta đã về đây
Nghe người hát mà thương người quá thể
Hỡi mây trời hãy xuống hát cùng tôi....
Cười:
Ta nói cười cuối biển cũng nghe ta
Những câu triết lý nửa mùa:
"Những cánh đồng in dấu chân của mẹ
Cứ ngày ngày ra khẩu lệnh cho tôi.
Lửa vì thế đã chín thành than đỏ
Tôi là chỗ thất thường của gió
Khi người yêu cởi áo trao khăn
Tôi là chỗ bước chân đi chậm lại
Người thương nhau dù thương chỉ một lần
Tôi là chỗ những ngang tàng chịu khuất
Nơi con người thuần hóa các dòng sông
Tôi là kẻ thù của những gì chia cắt
Hữu Thỉnh hay cóp và phỏng theo ý tứ của người khác nhưng không thành công. Nguyễn Bình viết: "Hồn trinh chôn chặt chân gường Em còn cho chị lược gương làm gì?" Hữu Thỉnh: "Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền", Sao lại "chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền"? Ca dao nói : "Má lùm đồng tiền vạn rưỡi cũng mua". Đưa tuổi xuân vào má lúm đồng tiền làm cho má lúm đồng tiền thêm đẹp, thêm xinh, có gì hy sinh, cực hình khao khát đâu? Giải phóng miền Nam, miền Bắc Việt Nam đã tung hết nhân tài vật lực cho cuộc chiến, "thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người", ba bốn quân đoàn, hàng trăm tướng lĩnh có tài thao lược, được học hành đào tạo nước ngoài (Trung Quốc, Liên Xô cũ như Lê Trọng Tấn - Giu cốp của Việt Nam, Lê Đức Anh - Cu zu tốp chột Việt Nam, Nguyễn Nam Khánh - Lâm Bưu Việt, Nam Long - Xích vệ Đỏ...) và hàng vạn dân vùng tạm bị chiếm nhất tề xông lên giành thắng lợi. Có đâu trong Đường tới thành phố hiu hắt mấy anh vệ túm, vệ dân (dân vệ), tư lệnh Trường Sơn trong vườn trầu..., kẻ rúc hầm, đứa xoi hầm quần qua, quần lại gốc sim trông rất cà lơ, cò lả, xơ xác không ra một phong cách trượng phu, hảo hán! Bởi thế trong trường ca này không tìm ra một hình ảnh anh hùng, một hình ảnh mỹ nhân tài mạo song toàn để đời, toàn là nhàn nhạt ngàn xa buồn cô liêu! Hữu Thỉnh viết Đường tới thành phố năm 1977 - 1978 tại Đà Lạt gậm nhấm "chiến thắng" , "vinh quang", trong khi cả dân tộc tạ tàn trong tao loạn, nạn thuyền nhân chấn động địa cầu. Gần 1 triệu người bị nhấn chìm trong biển cả làm mồi cho cá dữ! "Năm Mậu Ngọ mất khoai Năm Kỷ Mùi sạch lúa Vạn nhà cứ đói hoài Vạn người mồi cá dữ" (Đỗ Hoàng). Trời đất làm sao cho trang viết này hay được, có thần bút được! Nói chung Đường tới thành phố là một trường ca kém toàn diện, tác giả trình độ yếu, kiến văn thấp, học vấn chắp vá, tay nghề làng nhàng, một ý tưởng nói theo và làm theo lệnh cấp trên nên không có giá trị gì về nội dung, nghệ thuật. Hữu Thỉnh không có tài thơ! Đúng như giám khảo Xuân Diệu lúc đầu nhận xét: "Đường tới thành phố là trường ca tào lao chi khươn"! Hà Nội 8 - 2020 Đ - H